LỊCH SỬ CHỮ QUỐC NGỮ - Chính sử "bị mất"

Alexandre de Rhodes là danh nhân văn hóa hay là kẻ thù dân tộc? Câu chuyện của chủ nghĩa công - tội đã nhận sự phản ứng dữ dội trong nhiều diễn đàn khác nhau. Và cuộc tranh luận ngày càng đa chiều, mở rộng, ban đầu từ vấn đề chữ Quốc ngữ, giờ đây còn sang cả chữ Nôm, chữ Hán, cũng như lịch sử ra đời, vai trò của các loại chữ viết này trong lịch sử Việt Nam. Những tranh cãi này gay gắt dường như không có lời kết.

📚LỊCH SỬ CHỮ QUỐC NGỮ.

   Tác giả : ĐỖ QUANG CHÍNH 

    1972

✨Đọc lịch sử chữ quốc ngữ sẽ cho chúng ta biết , cha đẻ chữ quốc ngữ là ai? 

✨Lịch sử nước An Nam (1659), tập sử đầu tiên viết bằng quốc ngữ nằm ngay trong Lịch sử chữ quốc ngữ được thầy Bentô Thiện- là một trong những người Việt đầu tiên học chữ quốc ngữ, viết gửi cho cha Marini năm 1659 về những nội dung gì?

✨Tại sao nói đây là cuốn sách có 2 trong 1 - vừa mang tên Lịch sử chữ quốc ngữ vừa ghi lại đầy đủ về lịch sử nước An Nam. Bởi đây là một phần viết linh mục Đỗ Quang Chính đặt cho trong cuốn Lịch sử chữ quốc ngữ (1620 - 1659) xuất bản năm 1972.

Đặt Mua

Giá bán được báo theo liên hệ qua tin nhắn tại:  https://facebook.com/conhankhaiphong/

❄️ Sau đây, Cổ Nhân Khai Phóng có thể đăng lại một vài phần về cuốn sử đầu tiên của người Việt Nam được viết bằng chữ Quốc ngữ, có chỉnh sửa lại chính tả và phát âm cho giống ngày nay:

💧“Nước Ngô trước hết mới có vua trị là Phục Hi. Vua thứ hai là Thần Nông. Con cháu vua Thần Nông sang trị nước An Nam, liền sinh ra vua Kinh Dương vương. Trước hết lấy vợ là nàng Thần Long, liền sinh ra vua Lạc Long quân. Lạc Long quân trị vì, lấy vợ tên là Âu Cơ, có thai đẻ ra một bao có một trăm trứng, nở ra được một trăm con trai. Mà vua Long quân là thủy tinh ở dưới biển, liền chia con ra: năm mươi con về cha ở dưới biển, mà năm mươi con thì về mẹ ở trên núi ; đều thì làm Chúa trị mọi nơi.

💧Lại truyền dõi đến đời vua Hùng vương, trị nước An Nam được mười tám đời, cũng là một tên là Hùng vương. Sau hết sinh ra được một con gái, tên là Mị Chu. Một nhà Sơn Tinh, một nhà Thủy Tinh, hai nhà đến hỏi lấy làm vợ, thì vua cha là Hùng Vương nói rằng: ai có của đến đây trước thì ta gả con cho. Nhà Sơn Tinh là vua Ba Vì đem của đến trước, thì vua Hùng Vương liền gả cho. Bấy giờ liền đem về núi Ba Vì khỏi. Đến sáng ngày nhà Thủy Tinh mới đến, thấy chẳng còn liền giận lắm, hễ là mọi năm thì làm lụt, gọi là dâng nước đánh mà đánh nhau.”

💧“Thuở ấy có một vua là Triệu Vũ hoàng sang đánh vua An Dương vương. An Dương vương lấy nỏ mà bắn thì giặc liền chết. Mà vua An Dương vương sinh ra được một con gái tên là Mị Chu. Vua Triệu Vũ hoàng thì có con trai tên là Trọng Thỉ. Mà Triệu Vũ giả nghĩa làm hòa thuận, mà hai bên gả con cho nhau. Vua An Dương Vương liền gả con cho con vua Vũ hoàng. Đến khi đã lấy được, ở làm nhà cha vợ; thấy cha vợ đi vắng mặt, thì hỏi vợ rằng: « Nào cái nỏ cha để đâu, lấy cho anh xem? » Vợ ngờ là thật dạ thì lấy nỏ ra cho xem. Chẳng ngờ có ý ăn trộm lấy lẫy nỏ, mà làm lẫy nỏ khác tra vào cho, kẻo còn thiêng đánh được cha mình. Đoạn bảo vợ rằng: « Anh về nước nhà cùng vua cha, hoặc là ngày sau hai nước chẳng yêu nhau, thì anh để cho em một áo lông ngan; ví bằng có đánh em theo vua cha, thì lấy lông này làm dấu cho anh biết đàng mà đi cùng. » Nói đoạn về nước nhà lấy quân đánh cha vợ, mà cha vợ ngờ nỏ còn thiêng thì bắn, chẳng ngờ đã mất phép; mà giặc đánh đến thì chạy, mà con cũng cỡi ngựa theo cha; mà giữ lời chồng bảo, liền lấy lông ngan bỏ dấu cho chồng theo. Vua chạy đến gần sông thì lại gặp cái rùa ngày trước cho vuốt ấy, liền bảo rằng: « Con vua, ấy là giặc, xin vua giết. » Vua liền giết con mới khỏi giặc. Nàng ấy kêu khóc rằng: « Tôi lòng dại, nghe người vì chồng; cho đạo cha muôn phần, tôi xin chết, máu này biến ra hột trai ở ngoài biển Đông. » Nàng ấy liền chết, thì chồng theo chẳng kịp. Thấy vợ đã chết, thì đến đấy thấy có một giếng sâu, thì lòng thương vợ, liền gieo mình xuống mà chết nữa. Đến ngày, có ai được hột trai Kinh xấu, thì lấy nước giếng ấy mà rửa, thì lại trong tốt. Ấy là duyên vợ chồng người ấy thì còn truyền đến nay.

Ngày sau Tô Định sang làm loạn phạt nước Annam. Khi ấy còn hai con gái là cháu vua Hùng vương tên là Trương Trắc, Trương Nhị, là hai đàn bà đi đánh Tô Định. Ngô liền thua, mới lập nên đồng trụ trên Quảng Tây.”

💧“Ngày sau mới có một ở Chè Giai, tên là Mạc Đăng Dong, ở làm lực sĩ nhà vua Lê, tên quan là Đô Giai, có tài, khôn ngoan mạnh khỏe. Thấy nhà Lê đã yếu chẳng còn ai, liền về xứ Đông làm quân, mà trẩy lên ăn cướp nước, mà đặt mình lên làm vua, đặt tên là Minh Đức, đời vua Đại Minh tên là Gia Tĩnh. Nhường vì cho con là Đại Chính. Thiên hạ có phép tắc mà được mùa no đủ. Chẳng có ai trộm cướp ai. Trị vì được mười một năm liền chết. Thiên hạ mới đặt con lên là Hiến Tông, lại đổi tên là Quảng Hòa. Trị được sáu năm liền chết, mới đặt con là Vĩnh Định còn trẻ ẵm lên ngồi ngai; mà chú là Khiêm vương mọi năm vào đánh Thanh Hoa, Nghệ An, thì thiên hạ được mùa phú quý, chẳng có trộm cướp, đêm nằm thì chẳng có nghe chó cắn, mới đổi tên là Cảnh Lịch, lại đổi tên khác là Quang Báu. Thiên hạ ăn uống chơi bời, chẳng có sự gì lo. Được năm năm lại đổi tên Hồng Ninh, thì thiên hạ cũng chơi bời ăn uống. Song le mê sự trai gái liền về đóng xứ Đông, làm con nhà dòng dõi công thần, con vua cháu chúa, thiên hạ chầu chực, và được mùa liên. Thuở ấy nhà Lê đã hết, còn một ông Hương quốc công là họ Nguyễn ra đầu làm tôi nhà Mạc. Đến nửa mùa liền trở về Thanh Hoa, làm được bốn trăm quân. Lại có chúa Minh Khang Thái Báu mồ côi cha còn trẻ, ở cùng ông Hương quốc công, có tài mạnh, ăn một bữa là là một nồi bảy cơm, đi đánh đâu thì được đấy. Bấy giờ Ông Hưng cho cai quân, mà lại gả con cho. Ngày sau ông Hưng chết, thì ông chúa bấy giờ liền làm binh, lấy quân Thanh Hoa, Nghệ An, thì nhà Mạc lại vào đánh trăm trận trăm thua, thì chúa Minh Khang liền mở ra đóng xứ Bắc được ba năm, mà vua nhà Mạc thì còn ở Kẻ Chợ, chẳng có ai đánh được ai. Chúa Minh Khang mới đặt vua nhà Lê lên là họ còn trị bây giờ. Tên vua ấy là Chính Trị. Ngày sau chúa Minh Khang già thì con cả người đem quân ra đầu nhà Mạc, con thứ hai còn mọn, thì đem được ba nghìn quân vào luỹ Ría cùng đem vua Chính Trị vào, ở được mười ba năm, giặc thì ở ngoài chẳng vào được. Đức chúa tiên ra rước được con vào đặt lên làm vua, tên là Gia Thái. Vua nhà Mạc ở Kẻ Chợ tên là Quang Báu, mới cải hiệu là Hồng Ninh, lại sai quân vào tháo nước cho mất lúa ba phủ Thanh Hoa bốn năm trận, có khi ở chín tháng mới về.”

LỊCH SỬ CHỮ QUỐC NGỮ - Chính sử "bị mất"

💧“Chùa thờ Bụt thì một làng là một chùa, nhà thờ thần thì cũng vậy, chẳng kể được cho hết.

Nghệ An xứ, những nhà thánh thờ đức Chúa Trời, được bảy mươi lăm nhà thánh.

Sơn Nam xứ được một trăm tám mươi ba nhà thánh. Hải Dương xứ được ba mươi bảy nhà thánh.

Kinh Bắc xứ được mười lăm nhà thánh.

Thanh Hoa xứ được hai mươi nhà thánh.

Sơn Tây xứ được mười nhà thánh.”

💧Những thông tin nào Về "cái nôi của chữ quốc ngữ",  không hề có trong Wikipedia?

🫧Linh mục Francisco de Pina, năm 1617, ông tới Hội An, năm 1618, ông dời tới Nước Mặn (Hàm Thủy) - Quy Nhơn. Đến năm 1620, ông trở lại Hội An, rồi năm 1623, ông dời sang Thanh Chiêm. Năm 1625, Pina chết đuối. Như vậy trong quãng thời gian 8 năm truyền giáo và phát triển chữ quốc ngữ, ông chỉ ở Quy Nhơn 2 năm mà thôi.

🫧 Nhà in Làng Sông (Quy Nhơn) là một trong những nhà in được thành lập sớm nhất, và đảm nhiệm vai trò trung tâm truyền bá chữ Quốc ngữ và văn học Quốc ngữ trong gần một thế kỷ  (1868 - 1953).

LỊCH SỬ CHỮ QUỐC NGỮ - Chính sử "bị mất"

Dĩ nhiên những thông tin này không có trong wikipedia 🙂.

✅Ai nói nước Nam ta thiếu nhân tài, ai nói bế quan tỏa cảng nên nhà Nguyễn mất H2O vô tay giặc Pháp, ấy là nhầm.

Hãy tìm đọc LỊCH SỬ CHỮ QUỐC NGỮ CỦA TÁC GIẢ ĐỖ QUANG CHÍNH để lời câu hỏi ai là người có công nhất trong  việc sáng tác chữ quốc ngữ? - tên những người Việt Nam nào đã cộng tác đắc lực với các Linh mục Dòng Tên trong khoảng từ 1620-1659, đặt nền tảng cho chữ Quốc ngữ ?

Đặt mua sách

Đặt Mua

Giá bán được báo theo liên hệ qua tin nhắn tại:  https://facebook.com/conhankhaiphong/

Liên quan: BÁCH VIỆT - NGUYỄN CÁT NGẠC - XB NĂM 1950

Post a Comment

Previous Post Next Post
Đọc tiếp: